Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp Lào: 75 năm truyền thống vẻ vang

Việt Nam và Lào cùng tựa lưng vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, cùng uống chung dòng nước Mê Kông; có nhiều nét tương đồng về lịch sử, kinh tế, văn hóa. Từ những điều kiện tự nhiên và xã hội ấy mà hai dân tộc Việt Nam - Lào đã gắn kết với nhau từ rất sớm và ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhất là trong các cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung của nhân dân hai nước, trở thành tình đoàn kết, liên minh chiến đấu đặc biệt vĩ đại, một điển hình mẫu mực hiếm có trong lịch sử quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới.

Giúp nhân dân nước bạn là mình tự giúp mình

Ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, tháng 10 năm 1945, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Lào Issala đã ký Hiệp ước tương trợ Lào - Việt và Hiệp định về tổ chức Liên quân Lào - Việt (30/10/1945). Đây là những văn kiện chính thức đầu tiên tạo cơ sở pháp lý để hai nước Việt Nam, Lào hợp tác và đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung. Hội Việt kiều cứu quốc các tỉnh, thành phố tại Lào đã động viên và kêu gọi thanh niên, học sinh, sinh viên, viên chức yêu nước tham gia lực lượng vũ trang, bán vũ trang, liên quân Lào - Việt. Thủ đô Viêng Chăn đã tập hợp được hơn 600 người, tổ chức thành 6 đại đội chiến đấu (3 đại đội Việt kiều, 3 đại đội Lào Issala), Savannakhet tổ chức 2 đại đội, thị xã Thakhec 4 đại đội...

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cay-xỏn Phôm-vi-hản tại Hà Nội, ngày 7/2/1966. Ảnh tư liệu lịch sử

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cay-xỏn Phôm-vi-hản tại Hà Nội, ngày 7/2/1966. Ảnh tư liệu lịch sử

Trên các mặt trận Lào từ Bắc đến Nam, vùng dọc theo biên giới Lào - Việt cũng như vùng dọc sông Mekong giáp Thái Lan, Liên quân Lào - Việt mặc dù trang bị, tổ chức, kinh nghiệm chiến đấu đều thua kém kẻ địch rất nhiều nhưng với ý chí kiên cường, lòng yêu nước và sự dũng cảm hy sinh vô bờ bến đã hầu như chặn đứng, thậm chí ở một vài nơi còn đẩy lùi các mũi tấn công của quân Pháp.

Để sát cánh cùng các đơn vị vũ trang yêu nước Lào chiến đấu, xây dựng và phát triển lực lượng, trong những năm 1945 - 1947, Trung ương Đảng và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà quyết định xây dựng và phát triển các đơn vị Việt kiều Giải phóng quân trên đất bạn Lào. Ngày 30 tháng 10 năm 1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định: “Các lực lượng quân sự của Việt Nam chiến đấu và công tác giúp Lào tổ chức thành hệ thống riêng và lấy danh nghĩa là Quân tình nguyện”. Đây là mốc lịch sử quan trọng, đánh dấu bước phát triển và trưởng thành của các lực lượng quân sự trên chiến trường Lào; khẳng định đường lối, quan điểm đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực hiện nhiệm vụ quốc tế. Với ý nghĩa đó, ngày 30 tháng 10 năm 1949 được lấy làm Ngày Truyền thống Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Lào.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ này các đoàn quân tình nguyện lần lượt được thành lập sang giúp cách mạng Lào đẩy mạnh kháng chiến, tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang. Kết quả là ngày 20/1/1949, quân đội Lào Issala ra đời, đánh dấu bước trưởng thành mới của cách mạng Lào.

Đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hản (người đầu tiên bên trái) cùng các cán bộ Quân đội Việt Nam tại Lào, năm 1949. Ảnh tư liệu lịch sử

Đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hản (người đầu tiên bên trái) cùng các cán bộ Quân đội Việt Nam tại Lào, năm 1949. Ảnh tư liệu lịch sử

Tháng 4/1950, Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh quyết định thống nhất các lực lượng Quân tình nguyện hoạt động trên chiến trường Bắc Lào thành ba phân khu (A, B và C) được biên chế thành các trung đoàn, tiểu đoàn và đại đội. Năm 1951, theo thỏa thuận của lãnh đạo hai nước Việt Nam - Lào, Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh tiếp tục tăng cường cán bộ và bộ đội tình nguyện sang chiến trường Lào, đưa tổng quân số tăng lên khoảng 12.000 người.

Sau thắng lợi của Chiến dịch Biên giới (1950), cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào đẩy mạnh phối hợp chiến đấu, tổ chức nhiều trận đánh, nhiều chiến dịch lớn tạo bước ngoặt cho cuộc kháng chiến, nổi bật là Chiến dịch Thượng Lào (8/4 đến 3/5/1953); Trung Lào (tháng 11/1953), Thượng Lào lần thứ hai (tháng 2/1954) và Hạ Lào (tháng 4/1954), tạo điều kiện thuận lợi cho quân và dân Việt Nam tiến lên tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Ngày 21/7/1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân hai nước Việt Nam và Lào kết thúc thắng lợi.

Từ năm 1960, khi đế quốc Mỹ can thiệp ngày càng trắng trợn vào công việc nội bộ của Lào, thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Lào đứng trước nhiều thử thách. Ngày 6/7/1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam thành lập Ban Công tác Lào, do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Trưởng ban. Sau quyết định này, ngày 12/9/1959, Đoàn chuyên gia quân sự 959 được thành lập và sang hoạt động tại Lào. Đây là những quyết định quan trọng, thể hiện tầm nhìn chiến lược và sự sáng tạo trong lãnh đạo các lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam giúp Lào kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Trong quá trình giúp Lào, các đoàn Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam đều bắt đầu từ đề xuất, kiến nghị những vấn đề quan trọng, giúp Bạn xem xét, đề ra chủ trương, chính sách lãnh đạo kháng chiến, xây dựng và chiến đấu của quân đội. Qua các chiến dịch lớn, như: Nậm Thà (1962), 128, 74A (1964), Nậm Bạc (1968), Mường Xủi (1969), Đường 9 - Nam Lào (1971), Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng (1972)..., tạo bước tiến lớn trong công cuộc kháng chiến của cách mạng Lào và tác động tích cực trở lại đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Sau những thất bại liên tiếp, ngày 27/1/1973, đế quốc Mỹ buộc phải ký Hiệp định Paris. Một tháng sau, ngày 21/2/1973, đế quốc Mỹ tiếp tục phải ký Hiệp định Viêng Chăn về Lào. Đến đây, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân hai nước Việt Nam và Lào bước sang giai đoạn mới.

Các đồng chí trong Ban Xung phong Lào – Bắc năm 1948. Ảnh tư liệu lịch sử

Các đồng chí trong Ban Xung phong Lào – Bắc năm 1948. Ảnh tư liệu lịch sử

Tháng 12/1973, tại cuộc hội đàm giữa các đoàn đại biểu cấp cao của Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, hai bên thống nhất đưa các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam đứng chân ở tuyến sau, giúp bảo vệ, giữ vững vùng giải phóng, hỗ trợ cho Bộ đội giải phóng Lào chiến đấu ở phía trước. Cùng với đó là việc rút phần lớn chuyên gia quân sự Việt Nam về nước.

“Giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình", Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam đã có đóng góp to lớn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cùng quân và dân các bộ tộc Lào giành thắng lợi hoàn toàn trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945 - 1975).

Sau thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam và Lào trở thành hai nước độc lập, thống nhất, đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Quan hệ hai nước bước sang giai đoạn phát triển mới - giai đoạn hợp tác toàn diện. Ngày 5/2/1976, Đoàn đại biểu Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào do đồng chí Cay-xỏn-phôm-vi-hản, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Thủ tướng Chính phủ dẫn đầu sang thăm chính thức Việt Nam. Hai đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ hai nước đã ra Tuyên bố chung Việt Nam - Lào.

Ghi nhận sự cống hiến, hy sinh và giúp đỡ to lớn của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào, trong phát biểu chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Đảng Lao động Việt Nam (năm 1976), Tổng Bí thư Cay-xỏn-phôm-vi-hản đã khẳng định: “Trong mọi sự thành công của cách mạng Lào đều có sự đóng góp trực tiếp của cách mạng Việt Nam. Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam có quyền tự hào vì những đóng góp máu xương vào thắng lợi của quân và dân Lào anh em trong suốt chặng đường dài mấy mươi năm chiến đấu và công tác trên đất nước Triệu Voi anh hùng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trọng đại mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân trao cho". Ngày 30/4/1976, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 251-NQ/TW về tăng cường đoàn kết, giúp đỡ và hợp tác với cách mạng Lào trong giai đoạn mới. Nghị quyết nêu rõ: “Tăng cường đoàn kết, giúp đỡ và hợp tác đối với Lào là một trong những nhiệm vụ quốc tế hàng đầu của Đảng và nhân dân ta trong tình hình hiện nay".

Đồng chí Lê Thiệu Huy (người đứng bậc dưới cùng) và Ban Tham mưu Bộ đội tình nguyện Việt Nam chụp ảnh kỷ niệm trước khi lên đường sang Lào năm 1946. Đồng chí Huy là người đã hy sinh thân mình che đạn cho Hoàng thân Xu-pha-nu-vông. Ảnh tư liệu
Đồng chí Lê Thiệu Huy (người đứng bậc dưới cùng) và Ban Tham mưu Bộ đội tình nguyện Việt Nam chụp ảnh kỷ niệm trước khi lên đường sang Lào năm 1946. Đồng chí Huy là người đã hy sinh thân mình che đạn cho Hoàng thân Xu-pha-nu-vông. Ảnh tư liệu

Đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ trong giai đoạn mới

Vào cuối năm 1976 đầu năm 1977, an ninh chính trị, chủ quyền lãnh thổ của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đứng trước tình hình bị đe dọa. Trước tình thế đó, theo yêu cầu chính thức của Lào, Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam một lần nữa đã trở lại giúp Bạn. Từ giữa năm 1976, Việt Nam đã cử hàng trăm Chuyên gia quân sự sang giúp bạn Lào tại tất cả các cơ quan lãnh đạo thuộc Bộ Quốc phòng Lào, các tỉnh trọng điểm, đơn vị trọng điểm của QĐND Lào. Đồng thời, đưa một sư đoàn quân tình nguyện Việt Nam đến các địa bàn xung yếu cùng bạn Lào đập tan mọi âm mưu, ý đồ chống phá, gây bạo loạn của các thế lực thù địch.

Ngày 18/7/1977, trong chuyến thăm chính thức nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào của Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hai nước ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác, Hiệp ước Hoạch định đường biên giới Quốc gia và ra Tuyên bố chung tăng cường sự tin cậy và hợp tác lâu dài. Đây là các hiệp ước đặc biệt quan trọng mang tính chiến lược về đào tạo cán bộ, ngoài chương trình đào tạo dài hạn, Bộ Quốc phòng Việt Nam thường xuyên tổ chức các lớp học ngắn hạn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các đơn vị của Quân đội Lào. Việc tìm kiếm, cất bốc và hồi hương hài cốt liệt sĩ Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam trên đất Lào cũng được hai bên quan tâm, tích cực phối hợp và đạt kết quả tốt.

Thiếu tướng Huỳnh Đắc Hương (nguyên: Trưởng đoàn chuyên gia kiêm Chính ủy Quân tình nguyện Việt Nam tại Lào; Cục trưởng Cục Tổ chức, Tổng cục Chính trị; Thứ trưởng Bộ Thương binh và Xã hội) và Đại sứ Lào On-Tha-Văn (2023)

Thiếu tướng Huỳnh Đắc Hương (nguyên: Trưởng đoàn chuyên gia kiêm Chính ủy Quân tình nguyện Việt Nam tại Lào; Cục trưởng Cục Tổ chức, Tổng cục Chính trị; Thứ trưởng Bộ Thương binh và Xã hội) và Đại sứ Lào On-Tha-Văn (2023)

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng rất tích cực giúp đỡ và hợp tác với Lào về kinh tế dù rằng trong quãng thời gian đó chúng ta cũng đang gặp vô vàn khó khăn, thiếu thốn của một đất nước vừa ra khỏi chiến tranh, bị cô lập, bao vây, cấm vận. Cùng với đẩy mạnh hợp tác trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, hai nước tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực chính trị, đối ngoại, kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật,... Việt Nam đã cử nhiều chuyên gia hàng đầu về nông nghiệp và thủy lợi sang giúp Lào nghiên cứu, thu thập tài liệu, khảo sát phân tích đất, thiết kế hệ thống thủy lợi, tiến hành xây dựng luận chứng kinh tế - kỹ thuật cho các dự án về nông nghiệp; trực tiếp xuống tận các bản làng để giúp đỡ nông dân Lào canh tác, chuyển giao kỹ thuật, xây dựng hệ thống thủy lợi, phát triển kỹ thuật chăn nuôi theo phương pháp khoa học. Đồng thời, Lào còn yêu cầu Việt Nam cử các chuyên gia sang giúp Bạn xây dựng chương trình giảng dạy, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, hướng dẫn sinh viên làm đồ án tốt nghiệp...

Giai đoạn 1986 - 1996, giai đoạn đổi mới, Việt Nam và Lào vẫn luôn luôn bị các thế lực thù địch tìm mọi cách chống phá, thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn, xảo quyệt hơn. Trước tình hình đó, hai nước xác định hợp tác An ninh - Quốc phòng Việt Nam - Lào là nhiệm vụ cấp bách, quan trọng hàng đầu. Ngay từ những năm đầu thập niên 1990, giữa hai Chính phủ, hai bộ chức năng Nội vụ - Quốc phòng đều đã ký kết những hiệp định, nghị định về hợp tác, hỗ trợ nhau trong công tác bảo vệ an ninh, củng cố quốc phòng. Lực lượng vũ trang Lào đã chủ động phối hợp với Việt Nam tiến công đập tan hai cuộc hành quân “Đông tiến I”, “Đông tiến II” của lực lượng phản động lưu vong do Hoàng Cơ Minh cầm đầu ý định xâm nhập Việt Nam qua đường Lào...

Những năm gần đây, quan hệ hữu nghị Việt - Lào được lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước và Nhân dân hai nước tiếp tục quan tâm vun đắp, cùng cố, tăng cường, coi đây là quy luật giành thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng và phát triển của mỗi nước. Trong chuyến thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và Đoàn đại biểu cấp cao Đảng, Nhà nước ta từ ngày 24 đến 25/2/2019, hai bên đã nhấn mạnh mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và Chủ tịch Cay-xỏn-phôm-vi-hản, Chủ tịch Xu-pha-nu-vông gây dựng.

Trải qua 75 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại “Giúp bạn là tự giúp mình” lớp lớp thế hệ những người lính tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Lào mang trong mình bản chất “Bộ đội Cụ Hồ”, bằng xương máu mình trực tiếp xây dựng nên tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt vĩ đại Việt Nam - Lào. Qua các giai đoạn lịch sử, Quân tình nguyện thực hiện lời dạy của lãnh tụ hai nước quan hệ với nước bạn Lào trong 4 chữ tình: (1) Tình đồng chí: cùng chung lý tưởng cộng sản. (2) Tình anh em: cùng “cha mẹ” là Đảng Cộng sản Đông Dương, chia ngọt sẻ bùi, sống chết có nhau, sướng khổ có nhau. (3) Tình bạn bè: Son sắt, thuỷ chung, trong sáng. (4) Tình hữu nghị: đoàn kết đặc biệt, lâu dài, toàn diện vươn đến tầm vĩ đại.

Đại diện Ban liên lạc Quân tình nguyện đón Đại sứ Lào sang nhận nhiệm vụ và tiễn Đại sứ đã hoàn thành nhiệm vụ về nước, năm 2024

Đại diện Ban liên lạc Quân tình nguyện đón Đại sứ Lào sang nhận nhiệm vụ và tiễn Đại sứ đã hoàn thành nhiệm vụ về nước, năm 2024

Trải qua thăng trầm của lịch sử, dù tồn tại công khai hay tạm ẩn mình dưới danh nghĩa khác nhau nhưng chưa bao giờ, chưa một giây phút nào chúng ta buông tay những bạn bè anh em thân thiết ruột thịt của chúng ta ở phía tây dãy Trường Sơn. Nếu lịch sử một lần nữa yêu cầu, thì một thế hệ Quân tình nguyện Việt Nam giúp Lào nữa sẽ hình thành và lên đường. Đó là chân lý!

Ban liên lạc Quân tình nguyện tỉnh Thái Nguyên

Được sự đồng ý của Hội Cựu chiến binh tỉnh Thái Nguyên, Ban liên lạc Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam giúp Lào tỉnh Thái Nguyên (thường gọi tắt là Ban liên lạc Quân tình nguyện) được thành lập từ tháng 7/1996.

Đến nay, tổng số hội viên là 1.527 người. Ban liên lạc đã qua 4 kỳ Đại hội. Nhiệm kỳ 2021 - 2026, do phải chờ chủ trương của cấp trên, Ban liên lạc tỉnh họp phiên mở rộng thông qua đề án nhân sự 2021 - 2026, bầu đồng chí Dương Mạnh Việt làm Trưởng ban và giới thiệu tham gia Uỷ viên Ban liên lạc toàn quốc. Tại các huyện, thành phố trong tỉnh cũng đều có Ban liên lạc của mỗi địa phương.

Từ năm 2016 đến nay 2024 Ban liên lạc đã tham gia vào Khối thi đua Các hội xã hội - nghề nghiệp tỉnh. Ghi nhận thành tích trong quá trình hoạt động, Nhà nước, Chính phủ Lào đã tặng thưởng cho các chiến sỹ quân tình nguyện 200 bộ Huân huy chương giai đoạn 1945 – 1975, nâng tổng số huân, huy chương mà Nhà nước Lào trao tặng cho Quân tình nguyện của tỉnh Thái Nguyên lên 2.000 bộ (trong đó có 1.000 bộ Huân chương Tự do cho các anh hùng liệt sỹ hi sinh tại Lào).

Đại diện Ban liên lạc Quân tình nguyện đến thăm và giao lưu với Hiệp hội Cựu chiến binh quốc gia Lào, năm 2022

Đại diện Ban liên lạc Quân tình nguyện đến thăm và giao lưu với Hiệp hội Cựu chiến binh quốc gia Lào, năm 2022

Ban liên lạc đã tổ chức được nhiều hoạt động thiết thực, ý nghĩa: Trao tặng 165 suất quà cho các đối tượng chính sách thuộc Quân tình nguyện nhân Ngày Thương binh Liệt sỹ; hỗ trợ 10.000.000đ cho hội viên có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; trao tặng 77 triệu đồng cho sinh viên Lào tại Đại học Thái Nguyên trong các dịp tết Nguyên đán, tết Bunpymay hàng năm; tổ chức cho 2.000 lượt cựu Quân tình nguyện, thân nhân các anh hùng liệt sỹ hi sinh tại Lào thăm lại chiến trường xưa bằng nguồn xã hội hoá…

Ban liên lạc đã được Trung ương hội Cựu chiến binh Việt Nam tặng 4 bằng khen về thành tích quy tập hài cốt liệt sỹ; Trung ương hội Hữu nghị Việt Lào tặng 18 bằng khen về thành tích xây dựng hội Hữu nghị Việt Lào; UBND tỉnh tặng 12 bằng khen cho tập thể và cá nhân có thành tích đặc biệt xuất sắc; năm 2022 được UBND tỉnh tặng Cờ thi đua.

Phát huy truyền thống Quân tình nguyện trong 75 năm (1949 - 2024) và 28 năm thành lập Ban liên lạc (1996 - 2024), cán bộ, hội viên Ban liên lạc luôn phát huy bản chất Bộ đội Cụ Hồ và biểu tượng cao đẹp của tình đoàn kết hữu nghị Việt Nam - Lào để tình đoàn kết, gắn bó ấy ngày càng xanh tươi, đời đời bền vững.

TapChiGiay online

1 của 3

Xem nhiều nhất

TỔNG QUAN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2024 VÀ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2025

Chính trị - Xã hội 1 ngày trước

I. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 20241.1. Năm 2024, Hải Dương bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực biến động xuất hiện nhiều "điểm nóng". Thiên tai, biến đổi khí hậu, dịch bệnh và các vấn đề an ninh khó lường hơn. Trong nước, tình hình chính trị - xã hội và kinh tế vĩ mô giữ ổn định, kiểm soát được lạm phát. Trong tỉnh, bão số 03 (siêu bão Yagi) gây thiệt hại lớn về người và tài sản, ảnh hưởng trực tiếp đến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành đối mặt với sức ép lớn, vừa tập trung giải quyết những vấn đề phức tạp phát sinh, thích ứng với các diễn biến bất lợi vừa khai thác hiệu quả các cơ hội để thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, cùng với sự nỗ lực cố gắng của cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, đặc biệt là sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo tỉnh trong triển khai thực hiện "chỉ bàn làm, không bàn lùi", các cấp, các ngành trong tỉnh đã thực hiện quyết liệt, nỗ lực hoàn thành cao nhất các nhiệm vụ, mục tiêu và khối lượng công việc lớn. Tỉnh Hải Dương đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, khá toàn diện, cơ bản hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch năm 2024, dự kiến vượt và đạt 13/15 chỉ tiêu chủ yếu đã đề ra (08 chỉ tiêu vượt và 05 chỉ tiêu đạt kế hoạch; 02 chỉ tiêu không hoàn thành). Trong đó, có 06 điểm nổi bật nhất là: (1) Tăng trưởng kinh tế đứng thứ 06/63 tỉnh, thành phố trong cả nước, ước tăng 10,2% (vượt mục tiêu tăng trên 9%). Hoàn thành vượt 46,7% dự toán thu ngân sách nhà nước năm 2024; (2) Tập trung đầu tư hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, nhất là công trình giao thông trọng điểm, quan trọng kết nối liên vùng hoàn thành mở rộng không gian phát triển mới; hoàn thiện hạ tầng đô thị thị xã Kinh Môn đã được công nhận là đô thị loại III; (3) Quyết liệt thực hiện các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án và giải ngân các nguồn vốn đầu tư; (4) Kịp thời ban hành thực hiện nhiều chính sách về an sinh xã hội; hoàn thành toàn bộ các chỉ tiêu về xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng lên; (5) Chủ động ứng phó, khắc phục kịp thời hậu quả cơn bão số 03; (6) Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh ổn định, được giữ vững. 1.2. Kết quả phát triển các ngành, lĩnh vực- Lĩnh vực kinh tế: Năm 2024, ước tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) tăng 10,2% (đạt mục tiêu tăng trên 10% theo kịch bản xây dựng tháng 9 năm 2024), trong đó, giá trị tăng thêm của ngành Nông, lâm, thủy sản tăng 2,1%; Công nghiệp - Xây dựng tăng 13,1%; Dịch vụ tăng 7,5%; Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 8,8%. Quy mô GRDP (theo giá hiện hành) đạt 212.386 tỷ đồng, tăng gấp gần 1,13 lần so với năm 2023; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo đúng hướng, tỷ trọng các ngành Nông, lâm, thủy sản - Công nghiệp, xây dựng - Dịch vụ và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tương ứng là 8,3%-56,7%-26,3%-8,7%; cụ thể: + Lĩnh vực nông nghiệp duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch giao; các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục đổi mới, phát triển; bộ mặt nông thôn có nhiều chuyển biến tích cực, đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn không ngừng được cải thiện. Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản năm 2024 (giá so sánh 2010) ước đạt 22.943 tỷ đồng, đạt 99,3% kế hoạch năm và tăng 1,9% so với năm 2023; Các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hoá tập trung, sản xuất theo quy trình GAP ứng dụng công nghệ cao được duy trì và phát triển. Tổng diện tích gieo cấy lúa là 107.318ha. Sản xuất rau màu và cây ăn quả được mở rộng về diện tích, chủng loại và thị trường tiêu thụ. Chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản ổn định. đến nay đã có 400 sản phẩm được đánh giá phân hạng OCOP. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đến hết năm 2024 có 99 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 32 xã kiểu mẫu đạt tỷ lệ 18% (vượt mục tiêu 16,8%). + Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng phục hồi tích cực, duy trì tốc độ tăng trưởng ở mức 2 con số. Giá trị sản xuất công nghiệp (giá so sánh năm 2010) ước đạt 387.871 tỷ đồng, đạt 103,4% kế hoạch và tăng 14,8% so với năm 2023. Chỉ số sản xuất công nghiệp ước tăng 14,2%. Một số ngành có mức tăng cao, như: sản xuất thiết bị điện tăng 37,34%; ngành dệt tăng 25,36%; sắt, thép tăng 18,2%; chế biến thực phẩm tăng 14,6%; điện sản xuất tăng 8,9%... Bên cạnh đó, còn một số ngành gặp khó khăn do ảnh hưởng của thị trường như: lắp ráp ô tô tăng 0,9%; xi măng giảm 2,2%. Giá trị sản xuất ngành xây dựng (giá so sánh năm 2010) ước đạt 24.371 tỷ đồng, đạt 99,4% kế hoạch năm và tăng 10,73% so với năm 2023. + Lĩnh vực dịch vụ phát triển đa dạng, tổng giá trị sản xuất (giá so sánh năm 2010) ước đạt 54.664 tỷ đồng, đạt 101,1% kế hoạch năm và tăng 8,0% so với năm 2023. Hoạt động thương mại duy trì sự ổn định, hàng hóa dịch vụ phong phú, đa dạng đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người dân; Tổ chức hiệu quả nhiều hoạt động xúc tiến thương mại trong và ngoài nước. Hoạt động ngân hàng trên địa bàn ổn định, mặt bằng lãi suất giảm so với cuối năm 2023; Hoạt động xuất nhập khẩu, vận tải, kho bãi tiếp tục phát triển. Hoạt động du lịch ước đón và phục vụ trên 2,5 triệu lượt khách. - Tài chính: Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước đạt 28.813 tỷ đồng, tăng 46,7% so với dự toán, trong đó thu nội địa 24.588 tỷ đồng (tăng 45,3%), thu xuất nhập khẩu 4.092 tỷ đồng (tăng 50,4%). Tổng chi ngân sách nhà nước ước đạt 26.392 tỷ đồng, bằng 144,7% dự toán. - Hoạt động đầu tư và phát triển doanh nghiệp tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước đạt 64.360 tỷ đồng, tăng 12,1% so với năm 2023. Thực hiện phân bổ vốn đầu tư công năm 2024 theo đúng quy định của pháp luật về đầu tư công, với tổng vốn thanh toán khoảng 9.471,2 tỷ đồng. Ước cả năm 2024, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công đạt trên 95% kế hoạch giao. Thu hút đầu tư trong nước ước tổng vốn đăng ký khoảng 11.489 tỷ đồng, tăng gấp 1,2 lần so với năm 2023; Thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt 718,1 triệu USD, bằng 54,8% so với năm trước; cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thành lập mới 2.000 doanh nghiệp, tăng 6,2% so với thực hiện năm 2023. Khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã tiếp tục phát triển. - Công tác quy hoạch, đầu tư xây dựng, quản lý và phát triển đô thị: Hoàn thành đóng dấu hồ sơ quy hoạch tỉnh. Tổ chức xây dựng, điều chỉnh quy hoạch xây dựng vùng huyện; quy hoạch chung thành phố Chí Linh, thị xã Kinh Môn. Triển khai phương án kết nối hạ tầng giao thông theo nội dung hợp tác với các tỉnh giáp ranh. ?ẩy nhanh tiến độ các dự án đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông quan trọng, kết nối vùng tỉnh, huyện. Tích cực huy động nguồn lực xã hội hóa đầu tư hoàn thành các dự án giao thông kết nối. Xây dựng phương án vận hành lưới điện tỉnh năm 2024. Tập trung đẩy nhanh tiến độ đầu tư, xây dựng hạ tầng các khu công nghiệp và cụm công nghiệp. Xây dựng, điều chỉnh Chương trình phát triển đô thị tỉnh Hải Dương đến năm 2035. - Lĩnh vực văn hóa - xã hội: + Giáo dục và đào tạo hoàn thành chương trình năm học 2023-2024; thi tốt nghiệp THPT nằm trong tốp 15 tỉnh đầu. Thành tích học sinh giỏi quốc gia duy trì vị trí tốp đầu toàn quốc. Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia tiếp tục được quan tâm đầu tư. + Y tế, công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ; cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế từ tuyến tỉnh đến cơ sở được tập trung đầu tư. Chú trọng ban hành các chính sách hỗ trợ đào tạo, thu hút, đãi ngộ nguồn nhân lực y tế, chất lượng chăm sóc sức khỏe ban đầu tại các trạm y tế tuyến xã được nâng cao; lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm cho người dân được bảo đảm, các chỉ tiêu về sức khỏe không ngừng tăng lên, nhiều chỉ số cao hơn so với mặt bằng chung toàn quốc. + Lao động việc làm bảo đảm an sinh xã hội được tập trung quan tâm, chất lượng nguồn nhân lực từng bước đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động. Thực hiện tốt chính sách, chế độ ưu đãi đối với người có công với cách mạng; Thực hiện có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, chính sách bảo trợ xã hội, người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, đối tượng yếu thế trong xã hội.+ Hoạt động văn hóa, thể thao và phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" đạt kết quả tích cực. Tổ chức tốt các hoạt động tuyên truyền, sự kiện văn hóa thể thao tiêu biểu, văn nghệ kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước và các nhiệm vụ chính trị của tỉnh với nhiều hình thức đa dạng. - Hoạt động khoa học, công nghệ và quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường: Ban hành các cơ chế chính sách thúc đẩy phát triển khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh, các quy định theo thẩm quyền để tổ chức thực hiện Luật Đất đai năm 2024, cơ bản hệ thống công trình thuỷ lợi, đê điều trên địa bàn tỉnh được bảo vệ an toàn. - Tập trung phát triển hạ tầng bưu chính, viễn thông, chuyển dịch sang hạ tầng ICT là nền tảng cho chuyển đổi số; xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu, hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu của các ngành, địa phương, liên thông đồng bộ qua nền tảng tích hợp và chia sẻ dùng chung của tỉnh (LGSP) kết nối liên thông với các hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia; phát triển các kênh tương tác, cung cấp thông tin và các dịch vụ, tiện ích hữu hiệu giữa chính quyền với người dân và doanh nghiệp; triển khai nhiều hình thức nhằm phát triển kỹ năng số, công dân số, văn hóa số. Đẩy mạnh chuyển đổi số trong các doanh nghiệp. Công tác chỉ đạo, hướng dẫn, hoạt động thông tin, tuyên truyền và chuyển đổi số của các cơ quan báo chí, truyền thông được quan tâm đẩy mạnh, có hiệu quả. - Công tác tư pháp, thanh tra và nội vụ đã xây dựng thể chế thực hiện đồng bộ, toàn diện, kịp thời điều chỉnh các vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhà nước. Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo được thực hiện đúng pháp luật. Hoàn thành việc phê duyệt vị trí việc làm của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh. Đẩy mạnh thực hiện sáp nhập, hợp nhất, sắp xếp lại tổ chức bộ máy các cơ quan hành chính nhà nước và các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, bảo đảm chất lượng, hoạt động hiệu quả. Công tác thi đua, khen thưởng có nhiều chuyển biến tích cực.- Công tác quốc phòng, an ninh: Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp đối với công tác quốc phòng, quân sự địa phương; làm tốt công tác kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh; Thực hiện tốt công tác chính sách hậu phương quân đội và các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, giải quyết các chế độ, chính sách cho các đối tượng theo quy định; Công tác phòng, chống tội phạm về trật tự xã hội và tệ nạn xã hội được triển khai quyết liệt, bài bản, kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngừa nghiệp vụ và phòng ngừa xã hội. Triển khai Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh trật tự ở cơ sở, bảo đảm 100% người dân trong độ tuổi được cấp căn cước công dân gắn chíp điện tử; bảo đảm dữ liệu dân cư "đúng, đủ, sạch, sống".II. KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 20251. Dự báo tình hình năm 2025, bối cảnh, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, kéo dài tại một số quốc gia, khu vực, thúc đẩy cục diện thế giới chuyển động theo xu hướng "đa cực, đa trung tâm". Trong nước và trong tỉnh, năm 2025 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm cuối thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 05 năm 2021-2025. Tình hình trong tỉnh tiếp tục chịu ảnh hưởng chung của diễn biến do tình hình thế giới và trong nước nên có những khó khăn nhất định. 2025 là năm tập trung tổ chức Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng nên cần củng cố, chuẩn bị tốt các yếu tố nền tảng để thực hiện thắng lợi các mục tiêu của quy hoạch tỉnh, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2026-2030. 2. Mục tiêu và các chỉ tiêu chủ yếu 2.1. Mục tiêu năm 2025 là năm tăng tốc, bứt phá, về đích, lấy ổn định làm tiền đề cho phát triển và phát triển để làm cơ sở cho ổn định; phấn đấu đạt kết quả cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, là tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại.2.2. Các chỉ tiêu chủ yếu: Xây dựng 15 chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu, cụ thể như sau: - 07 chỉ tiêu về kinh tế: (1) Tổng sản phẩm trên địa bàn tăng trên 10%; (2) Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển trên địa bàn so với GRDP đạt 30%; (3) Thu ngân sách nội địa tăng 10% so với dự toán; (4) Giá trị sản phẩm thu hoạch trên 1 ha đất trồng trọt và nuôi trồng thủy sản đạt 212 triệu đồng; (5) Tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu đạt 20,2%; (6) Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng 10% so với thực hiện năm 2024; (7) Tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 45%. 06 chỉ tiêu về xã hội: (1) Tỷ lệ lao động qua đào tạo được cấp chứng chỉ đạt 33%; (2) Tỷ lệ lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội đạt 55%; (3) Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế so với dân số đạt 95%; (4) Tỷ lệ trường học các cấp đạt chuẩn quốc gia: Mầm non 79,7%, Tiểu học 98,7%, THCS 95%, THPT 90,2%; (5) Số giường bệnh (không tính các trạm y tế cấp xã) đạt 33,8 giường/ 01 vạn dân; 13 bác sĩ/ 01 vạn dân; (6) Tỷ lệ hộ nghèo cuối năm còn 0,43%. 02 chỉ tiêu về môi trường: (1) 100% các cụm công nghiệp (có chủ đầu tư hạ tầng) có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt yêu cầu; (2) Tỷ lệ các dự án thuộc đối tượng được phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường đạt 100%. 3. Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu Bám sát sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XVII, các Nghị quyết, Kết luận, Chương trình, Đề án và Kế hoạch của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh về phát triển trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh. Tiếp tục phát huy tính chủ động, sâu sát, linh hoạt, có trọng tâm, trọng điểm trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ năm 2025. Chủ động theo dõi, thường xuyên kiểm tra đôn đốc và giám sát tiến độ, kết quả thực hiện chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao; kịp thời bổ sung các giải pháp thực hiện phù hợp với diễn biến tình hình thực tế tại địa phương, đơn vị. Tăng cường thông tin tuyên truyền, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể các cấp, tạo đồng thuận xã hội, phấn đấu hoàn thành cao nhất mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 của tỉnh.