xegiuongnam-cover.png

Trường Quay • 21/10/2024

Bản tin Magazine Điện toán đám mây trong thời đại công nghệ 4.0 (phần 2)

 

 

 

Bài viết liên quan

Gặp mặt Đoàn đại biểu dự Đại hội đại biểu toàn quốc MTTQ Việt Nam lần thứ X

Tại buổi gặp mặt, đồng chí Dương Văn Tiến, Uỷ viên Ban Thường vụ, Chủ tịch Uỷ ban MTTQ tỉnh đã thông tin về Đại hội đại biểu toàn quốc MTTQ Việt Nam lần thứ X, nhiệm kỳ 2024 - 2029 và tình hình đại biểu của tỉnh Thái Nguyên sẽ tham dự Đại hội.Đại hội đại biểu toàn quốc MTTQ Việt Nam lần thứ X được tổ chức trong 3 ngày từ 16/10 - 18/10/2024 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Hà Nội. Dự kiến sẽ có gần 1.400 đại biểu dự Đại hội. Đoàn đại biểu tỉnh Thái Nguyên dự Đại hội lần thứ X gồm 13 đại biểu.Phát biểu tại buổi gặp mặt, đồng chí Phạm Hoàng Sơn gửi lời chúc mừng tới các đại biểu đã vinh dự được tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc MTTQ Việt Nam lần thứ X. Đồng chí nhấn mạnh rằng, mỗi đại biểu tham gia Đại hội đều là những nhân tố tiêu biểu trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng chí mong muốn, từng đại biểu trong Đoàn sẽ lan tỏa hình ảnh, bản sắc và văn hóa của người Thái Nguyên hiền lành, chất phác, tin yêu theo Đảng, mạnh dạn phát triển kinh tế và đề cao trách nhiệm với cộng đồng.Các đại biểu tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc MTTQ Việt Nam lần thứ X tham dự buổi gặp mặtĐồng thời, đồng chí Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy cũng lưu ý: Đây là cơ hội quan trọng để các đại biểu truyền tải tiếng nói và nguyện vọng của nhân dân tỉnh Thái Nguyên đến Đại hội. Để góp phần vào thành công chung của Đại hội đại biểu toàn quốc MTTQ Việt Nam, đồng chí mong muốn Đoàn đại biểu sẽ đại diện cho văn hóa, bản sắc tốt đẹp của người dân Thái Nguyên, thể hiện tinh thần đoàn kết, sáng tạo và trách nhiệm trong mọi hoạt động của Đại hội.Các đại biểu tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc MTTQ Việt Nam lần thứ X tham dự buổi gặp mặtĐồng chí đồng thời giao nhiệm vụ cho các đại biểu, nhấn mạnh rằng việc tham gia Đại hội không chỉ là niềm vinh dự của cá nhân mà còn là sự tin yêu và gửi gắm của nhân dân tỉnh nhà. Bởi vậy, đồng chí kỳ vọng, các đại biểu sẽ lắng nghe, tiếp thu những ý kiến, tinh thần của Đại hội để truyền đạt lại cho cán bộ, nhân dân và người lao động tại các cơ quan, đơn vị, địa phương nơi mình công tác.Đồng chí Phó Bí thư Thương trực Tỉnh uỷ chụp ảnh lưu niệm cùng Đoàn đại biểuKết thúc buổi gặp mặt, đồng chí Phạm Hoàng Sơn bày tỏ sự tin tưởng rằng Đoàn đại biểu sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần tạo nên một Đại hội thành công và đầy ý nghĩa.

Chính trị - Xã hội

Lại nói về chuyện khen chê

Hình chỉ mang tính minh họaKhen chê là một việc bình thường trong cuộc sống, nhưng khen chê sao cho đúng cũng không phải dễ. Cổ nhân thường nói: “Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”, với hàm ý nhắc người ta phải hết sức thận trọng trong phát ngôn.Ở thời đại bùng nổ thông tin, tình trạng loạn ngôn (bạ đâu nói đấy), lộng ngôn (đay nghiến, phỉ báng, một tấc đến trời), ngoa ngôn (quá quắt, thị phi), xảo ngôn (bịa đặt, giả dối)… diễn ra khá phổ biến, đặc biệt trên mạng xã hội và các nền tảng truyền thông trên internet.Trên xa lộ thông tin thời đại 4.0, mọi âm thanh, hình ảnh, lời nói đều có thể ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến những người tiếp nhận thông tin, bất kể đó là chuyện gì. Ở đây, chỉ xin bàn đến một phạm vi hẹp, đó là chuyện “khen” và “chê”.Trước hết nói về khen.Không riêng gì Việt Nam, mà tại nhiều quốc gia khác trên thế giới, khi thực hiện việc quản lý xã hội về lĩnh vực báo chí, tuyên truyền, người ta thường hướng độc giả đến những thông tin tích cực. Nghĩa là trên báo chí và truyền thông, sẽ chủ yếu đưa những thông tin tích cực (khen). Những thông tin tiêu cực (chê) luôn chiếm tỷ trọng nhỏ hơn rất nhiều. Đây là phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, giúp cho mỗi người sống trong môi trường ấy cảm thấy an yên, hồ hởi, tránh bi lụy, suy nghĩ tiêu cực, thêm mến yêu cuộc sống.Nhưng “khen” cũng phải đúng thì việc khen đó mới thực sự có ý nghĩa và tác động lan tỏa. Khen không đúng đối tượng, không đúng mức độ thì nhiều khi còn phản cảm, tạo hiệu ứng ngược. Trên thực tế, chuyện “khen văng mạng” này đã không ít lần xảy ra. Những “tấm gương”, “điển hình” được báo chí tung hô ngay khi họ đang “có vấn đề”, và sau đó kết cục là “sập tiệm”, “vào lò”, để lại những bài báo sống sượng. Gần đây, nhiều “cư dân mạng” phản ứng mạnh với những câu chuyện kể về lãnh tụ của một vị giáo sư đáng kính. Nội dung câu chuyện rất cuốn hút người nghe, với mục đích ca người lãnh tụ. Nhưng những câu chuyện ấy, theo một số người hiểu biết về lịch sử, lại được cho là “bịa ra”, bởi chưa từng được sử sách, nhân chứng ghi nhận. Rõ ràng, việc “khen” mà không đúng, không thuyết phục thì có khi lại còn phản tác dụng.“Khen” đã như vậy, việc “chê” còn khó hơn.Trên diễn đàn báo chí thời gian qua đã từng gặp vấn nạn “đánh hội đồng”, nghĩa là “đánh” cho doanh nghiệp “không còn đường sống” chỉ vì một vài sai sót. Nghiêm trọng hơn, xuất hiện cả những “nhà báo kền kền”, mặc dù không thuộc địa bàn phụ trách, không thuộc lĩnh vực liên quan, nhưng cũng nhân đó “nhảy vào” kiếm chác. Họ mượn lý do “phản ánh”, “chống tiêu cực”, nhưng viết theo kiểu soi mói, “có bé xé ra to”; sử dụng những ngôn từ mạnh mẽ gây sốc; móc máy, đay đỉa làm cho người vi phạm bị mất mặt, doanh nghiệp mất uy tín… Đáng nói là họ làm như vậy không hề vô tư. Thường thì họ gạ gẫm, dền dứ (đăng một phần, nói lấp lửng) thậm chí trực tiếp trao đổi, đe dọa để đối tượng phải chi tiền, khi không đạt được mục đích mới quay sang “đánh”. Xét cho cùng, đó là hành vi tống tiền, là vi phạm pháp luật, song rất tinh vi, không dễ gì xử lí. Mấy năm gần đây, nhờ sự tích cực vào cuộc của Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Nhà báo Việt Nam… thì vấn nạn này mới cơ bản được ngăn chặn.Nhưng việc ngăn chặn này mới chủ yếu thực hiện trên báo chí. Trong khi, như đã nói, ngày nay còn nhiều nền tảng thông tin khác đang vận hành trên internet, nhất là các trang mạng xã hội, thì việc kiểm duyệt là không hề dễ. Các đối tượng sử dụng nhiều “chiêu” rất tinh vi: cạnh khóe, rung dứ, dùng từ lóng kiểu “ngôn ngữ mạng”…; hoặc thông qua các diễn đàn, hội nhóm; mượn phát ngôn của người nổi tiếng, người dẫn dắt dư luận để suy diễn… khiến việc phát hiện và xử lý là vô cùng khó khăn.Nguy hại hơn, những kẻ thù địch, chống phá đã lợi dụng vào việc này để thóa mạ, chửi bới, kích động, làm cho không ít người bị ngộ nhận, a dua, hùa theo. Câu chuyện phê phán bài thơ “Tiếng hạt nảy mầm” trên Facebook vừa qua là một ví dụ. Bài thơ của tác giả Tô Hà in trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 (2018), được một nhóm Facebook có gần 60 nghìn thành viên đăng tải, phê phán. Cho dù sau khi đăng tải đã có nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu giáo dục có uy tín lên tiếng bảo vệ, thậm chí báo chí đã phải vào cuộc, làm rõ, nhưng bài viết đã gây tác động xã hội không nhỏ. Hơn 300 nghìn lượt theo dõi với rất nhiều bình luận chửi rủa nhà thơ, mạt sát người biên soạn, căm phẫn Bộ Giáo dục và Đào tạo.Những “sự cố truyền thông” kiểu như vậy rất dễ bị các thế lực thù địch bám vào, lợi dụng, thổi phồng, kích động, dẫn dắt dư luận… với mục đích chống phá chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Khi ấy, câu chuyện không còn thuần túy là việc khen chê, bày tỏ quan điểm của một cá nhân nữa.Rõ ràng, khen chê đánh giá thế nào là quyền của mỗi người, nhưng khi phát ngôn trên diễn đàn, báo chí, mạng xã hội,… cần phải hết sức thận trọng, chứ không thể hồ đồ, “văng mạng”. Đó mới thể hiện là người có trách nhiệm với cộng đồng và xã hội. Ngẫm lại, câu thành ngữ mà người xưa từng đúc kết “Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói” là vô cùng thâm thúy, đến nay vẫn chưa hề lạc hậu.

Chính trị - Xã hội

Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp Lào: 75 năm truyền thống vẻ vang

Giúp nhân dân nước bạn là mình tự giúp mìnhNgay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, tháng 10 năm 1945, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Lào Issala đã ký Hiệp ước tương trợ Lào - Việt và Hiệp định về tổ chức Liên quân Lào - Việt (30/10/1945). Đây là những văn kiện chính thức đầu tiên tạo cơ sở pháp lý để hai nước Việt Nam, Lào hợp tác và đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung. Hội Việt kiều cứu quốc các tỉnh, thành phố tại Lào đã động viên và kêu gọi thanh niên, học sinh, sinh viên, viên chức yêu nước tham gia lực lượng vũ trang, bán vũ trang, liên quân Lào - Việt. Thủ đô Viêng Chăn đã tập hợp được hơn 600 người, tổ chức thành 6 đại đội chiến đấu (3 đại đội Việt kiều, 3 đại đội Lào Issala), Savannakhet tổ chức 2 đại đội, thị xã Thakhec 4 đại đội...Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cay-xỏn Phôm-vi-hản tại Hà Nội, ngày 7/2/1966. Ảnh tư liệu lịch sửTrên các mặt trận Lào từ Bắc đến Nam, vùng dọc theo biên giới Lào - Việt cũng như vùng dọc sông Mekong giáp Thái Lan, Liên quân Lào - Việt mặc dù trang bị, tổ chức, kinh nghiệm chiến đấu đều thua kém kẻ địch rất nhiều nhưng với ý chí kiên cường, lòng yêu nước và sự dũng cảm hy sinh vô bờ bến đã hầu như chặn đứng, thậm chí ở một vài nơi còn đẩy lùi các mũi tấn công của quân Pháp.Để sát cánh cùng các đơn vị vũ trang yêu nước Lào chiến đấu, xây dựng và phát triển lực lượng, trong những năm 1945 - 1947, Trung ương Đảng và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà quyết định xây dựng và phát triển các đơn vị Việt kiều Giải phóng quân trên đất bạn Lào. Ngày 30 tháng 10 năm 1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định: “Các lực lượng quân sự của Việt Nam chiến đấu và công tác giúp Lào tổ chức thành hệ thống riêng và lấy danh nghĩa là Quân tình nguyện”. Đây là mốc lịch sử quan trọng, đánh dấu bước phát triển và trưởng thành của các lực lượng quân sự trên chiến trường Lào; khẳng định đường lối, quan điểm đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực hiện nhiệm vụ quốc tế. Với ý nghĩa đó, ngày 30 tháng 10 năm 1949 được lấy làm Ngày Truyền thống Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Lào.Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ này các đoàn quân tình nguyện lần lượt được thành lập sang giúp cách mạng Lào đẩy mạnh kháng chiến, tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang. Kết quả là ngày 20/1/1949, quân đội Lào Issala ra đời, đánh dấu bước trưởng thành mới của cách mạng Lào.Đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hản (người đầu tiên bên trái) cùng các cán bộ Quân đội Việt Nam tại Lào, năm 1949. Ảnh tư liệu lịch sửTháng 4/1950, Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh quyết định thống nhất các lực lượng Quân tình nguyện hoạt động trên chiến trường Bắc Lào thành ba phân khu (A, B và C) được biên chế thành các trung đoàn, tiểu đoàn và đại đội. Năm 1951, theo thỏa thuận của lãnh đạo hai nước Việt Nam - Lào, Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh tiếp tục tăng cường cán bộ và bộ đội tình nguyện sang chiến trường Lào, đưa tổng quân số tăng lên khoảng 12.000 người.Sau thắng lợi của Chiến dịch Biên giới (1950), cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào đẩy mạnh phối hợp chiến đấu, tổ chức nhiều trận đánh, nhiều chiến dịch lớn tạo bước ngoặt cho cuộc kháng chiến, nổi bật là Chiến dịch Thượng Lào (8/4 đến 3/5/1953); Trung Lào (tháng 11/1953), Thượng Lào lần thứ hai (tháng 2/1954) và Hạ Lào (tháng 4/1954), tạo điều kiện thuận lợi cho quân và dân Việt Nam tiến lên tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Ngày 21/7/1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân hai nước Việt Nam và Lào kết thúc thắng lợi.Từ năm 1960, khi đế quốc Mỹ can thiệp ngày càng trắng trợn vào công việc nội bộ của Lào, thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Lào đứng trước nhiều thử thách. Ngày 6/7/1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam thành lập Ban Công tác Lào, do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Trưởng ban. Sau quyết định này, ngày 12/9/1959, Đoàn chuyên gia quân sự 959 được thành lập và sang hoạt động tại Lào. Đây là những quyết định quan trọng, thể hiện tầm nhìn chiến lược và sự sáng tạo trong lãnh đạo các lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam giúp Lào kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.Trong quá trình giúp Lào, các đoàn Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam đều bắt đầu từ đề xuất, kiến nghị những vấn đề quan trọng, giúp Bạn xem xét, đề ra chủ trương, chính sách lãnh đạo kháng chiến, xây dựng và chiến đấu của quân đội. Qua các chiến dịch lớn, như: Nậm Thà (1962), 128, 74A (1964), Nậm Bạc (1968), Mường Xủi (1969), Đường 9 - Nam Lào (1971), Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng (1972)..., tạo bước tiến lớn trong công cuộc kháng chiến của cách mạng Lào và tác động tích cực trở lại đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Sau những thất bại liên tiếp, ngày 27/1/1973, đế quốc Mỹ buộc phải ký Hiệp định Paris. Một tháng sau, ngày 21/2/1973, đế quốc Mỹ tiếp tục phải ký Hiệp định Viêng Chăn về Lào. Đến đây, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân hai nước Việt Nam và Lào bước sang giai đoạn mới.Các đồng chí trong Ban Xung phong Lào – Bắc năm 1948. Ảnh tư liệu lịch sửTháng 12/1973, tại cuộc hội đàm giữa các đoàn đại biểu cấp cao của Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, hai bên thống nhất đưa các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam đứng chân ở tuyến sau, giúp bảo vệ, giữ vững vùng giải phóng, hỗ trợ cho Bộ đội giải phóng Lào chiến đấu ở phía trước. Cùng với đó là việc rút phần lớn chuyên gia quân sự Việt Nam về nước.“Giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình", Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam đã có đóng góp to lớn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cùng quân và dân các bộ tộc Lào giành thắng lợi hoàn toàn trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945 - 1975).Sau thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam và Lào trở thành hai nước độc lập, thống nhất, đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Quan hệ hai nước bước sang giai đoạn phát triển mới - giai đoạn hợp tác toàn diện. Ngày 5/2/1976, Đoàn đại biểu Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào do đồng chí Cay-xỏn-phôm-vi-hản, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Thủ tướng Chính phủ dẫn đầu sang thăm chính thức Việt Nam. Hai đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ hai nước đã ra Tuyên bố chung Việt Nam - Lào.Ghi nhận sự cống hiến, hy sinh và giúp đỡ to lớn của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào, trong phát biểu chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Đảng Lao động Việt Nam (năm 1976), Tổng Bí thư Cay-xỏn-phôm-vi-hản đã khẳng định: “Trong mọi sự thành công của cách mạng Lào đều có sự đóng góp trực tiếp của cách mạng Việt Nam. Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam có quyền tự hào vì những đóng góp máu xương vào thắng lợi của quân và dân Lào anh em trong suốt chặng đường dài mấy mươi năm chiến đấu và công tác trên đất nước Triệu Voi anh hùng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trọng đại mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân trao cho". Ngày 30/4/1976, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 251-NQ/TW về tăng cường đoàn kết, giúp đỡ và hợp tác với cách mạng Lào trong giai đoạn mới. Nghị quyết nêu rõ: “Tăng cường đoàn kết, giúp đỡ và hợp tác đối với Lào là một trong những nhiệm vụ quốc tế hàng đầu của Đảng và nhân dân ta trong tình hình hiện nay".Đồng chí Lê Thiệu Huy (người đứng bậc dưới cùng) và Ban Tham mưu Bộ đội tình nguyện Việt Nam chụp ảnh kỷ niệm trước khi lên đường sang Lào năm 1946. Đồng chí Huy là người đã hy sinh thân mình che đạn cho Hoàng thân Xu-pha-nu-vông. Ảnh tư liệuĐoàn kết, hợp tác, giúp đỡ trong giai đoạn mớiVào cuối năm 1976 đầu năm 1977, an ninh chính trị, chủ quyền lãnh thổ của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đứng trước tình hình bị đe dọa. Trước tình thế đó, theo yêu cầu chính thức của Lào, Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam một lần nữa đã trở lại giúp Bạn. Từ giữa năm 1976, Việt Nam đã cử hàng trăm Chuyên gia quân sự sang giúp bạn Lào tại tất cả các cơ quan lãnh đạo thuộc Bộ Quốc phòng Lào, các tỉnh trọng điểm, đơn vị trọng điểm của QĐND Lào. Đồng thời, đưa một sư đoàn quân tình nguyện Việt Nam đến các địa bàn xung yếu cùng bạn Lào đập tan mọi âm mưu, ý đồ chống phá, gây bạo loạn của các thế lực thù địch.Ngày 18/7/1977, trong chuyến thăm chính thức nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào của Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hai nước ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác, Hiệp ước Hoạch định đường biên giới Quốc gia và ra Tuyên bố chung tăng cường sự tin cậy và hợp tác lâu dài. Đây là các hiệp ước đặc biệt quan trọng mang tính chiến lược về đào tạo cán bộ, ngoài chương trình đào tạo dài hạn, Bộ Quốc phòng Việt Nam thường xuyên tổ chức các lớp học ngắn hạn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các đơn vị của Quân đội Lào. Việc tìm kiếm, cất bốc và hồi hương hài cốt liệt sĩ Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam trên đất Lào cũng được hai bên quan tâm, tích cực phối hợp và đạt kết quả tốt.Thiếu tướng Huỳnh Đắc Hương (nguyên: Trưởng đoàn chuyên gia kiêm Chính ủy Quân tình nguyện Việt Nam tại Lào; Cục trưởng Cục Tổ chức, Tổng cục Chính trị; Thứ trưởng Bộ Thương binh và Xã hội) và Đại sứ Lào On-Tha-Văn (2023)Bên cạnh đó, Việt Nam cũng rất tích cực giúp đỡ và hợp tác với Lào về kinh tế dù rằng trong quãng thời gian đó chúng ta cũng đang gặp vô vàn khó khăn, thiếu thốn của một đất nước vừa ra khỏi chiến tranh, bị cô lập, bao vây, cấm vận. Cùng với đẩy mạnh hợp tác trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, hai nước tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực chính trị, đối ngoại, kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật,... Việt Nam đã cử nhiều chuyên gia hàng đầu về nông nghiệp và thủy lợi sang giúp Lào nghiên cứu, thu thập tài liệu, khảo sát phân tích đất, thiết kế hệ thống thủy lợi, tiến hành xây dựng luận chứng kinh tế - kỹ thuật cho các dự án về nông nghiệp; trực tiếp xuống tận các bản làng để giúp đỡ nông dân Lào canh tác, chuyển giao kỹ thuật, xây dựng hệ thống thủy lợi, phát triển kỹ thuật chăn nuôi theo phương pháp khoa học. Đồng thời, Lào còn yêu cầu Việt Nam cử các chuyên gia sang giúp Bạn xây dựng chương trình giảng dạy, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, hướng dẫn sinh viên làm đồ án tốt nghiệp...Giai đoạn 1986 - 1996, giai đoạn đổi mới, Việt Nam và Lào vẫn luôn luôn bị các thế lực thù địch tìm mọi cách chống phá, thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn, xảo quyệt hơn. Trước tình hình đó, hai nước xác định hợp tác An ninh - Quốc phòng Việt Nam - Lào là nhiệm vụ cấp bách, quan trọng hàng đầu. Ngay từ những năm đầu thập niên 1990, giữa hai Chính phủ, hai bộ chức năng Nội vụ - Quốc phòng đều đã ký kết những hiệp định, nghị định về hợp tác, hỗ trợ nhau trong công tác bảo vệ an ninh, củng cố quốc phòng. Lực lượng vũ trang Lào đã chủ động phối hợp với Việt Nam tiến công đập tan hai cuộc hành quân “Đông tiến I”, “Đông tiến II” của lực lượng phản động lưu vong do Hoàng Cơ Minh cầm đầu ý định xâm nhập Việt Nam qua đường Lào...Những năm gần đây, quan hệ hữu nghị Việt - Lào được lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước và Nhân dân hai nước tiếp tục quan tâm vun đắp, cùng cố, tăng cường, coi đây là quy luật giành thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng và phát triển của mỗi nước. Trong chuyến thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và Đoàn đại biểu cấp cao Đảng, Nhà nước ta từ ngày 24 đến 25/2/2019, hai bên đã nhấn mạnh mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và Chủ tịch Cay-xỏn-phôm-vi-hản, Chủ tịch Xu-pha-nu-vông gây dựng.Trải qua 75 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại “Giúp bạn là tự giúp mình” lớp lớp thế hệ những người lính tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Lào mang trong mình bản chất “Bộ đội Cụ Hồ”, bằng xương máu mình trực tiếp xây dựng nên tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt vĩ đại Việt Nam - Lào. Qua các giai đoạn lịch sử, Quân tình nguyện thực hiện lời dạy của lãnh tụ hai nước quan hệ với nước bạn Lào trong 4 chữ tình: (1) Tình đồng chí: cùng chung lý tưởng cộng sản. (2) Tình anh em: cùng “cha mẹ” là Đảng Cộng sản Đông Dương, chia ngọt sẻ bùi, sống chết có nhau, sướng khổ có nhau. (3) Tình bạn bè: Son sắt, thuỷ chung, trong sáng. (4) Tình hữu nghị: đoàn kết đặc biệt, lâu dài, toàn diện vươn đến tầm vĩ đại.Đại diện Ban liên lạc Quân tình nguyện đón Đại sứ Lào sang nhận nhiệm vụ và tiễn Đại sứ đã hoàn thành nhiệm vụ về nước, năm 2024Trải qua thăng trầm của lịch sử, dù tồn tại công khai hay tạm ẩn mình dưới danh nghĩa khác nhau nhưng chưa bao giờ, chưa một giây phút nào chúng ta buông tay những bạn bè anh em thân thiết ruột thịt của chúng ta ở phía tây dãy Trường Sơn. Nếu lịch sử một lần nữa yêu cầu, thì một thế hệ Quân tình nguyện Việt Nam giúp Lào nữa sẽ hình thành và lên đường. Đó là chân lý!Ban liên lạc Quân tình nguyện tỉnh Thái NguyênĐược sự đồng ý của Hội Cựu chiến binh tỉnh Thái Nguyên, Ban liên lạc Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam giúp Lào tỉnh Thái Nguyên (thường gọi tắt là Ban liên lạc Quân tình nguyện) được thành lập từ tháng 7/1996.Đến nay, tổng số hội viên là 1.527 người. Ban liên lạc đã qua 4 kỳ Đại hội. Nhiệm kỳ 2021 - 2026, do phải chờ chủ trương của cấp trên, Ban liên lạc tỉnh họp phiên mở rộng thông qua đề án nhân sự 2021 - 2026, bầu đồng chí Dương Mạnh Việt làm Trưởng ban và giới thiệu tham gia Uỷ viên Ban liên lạc toàn quốc. Tại các huyện, thành phố trong tỉnh cũng đều có Ban liên lạc của mỗi địa phương.Từ năm 2016 đến nay 2024 Ban liên lạc đã tham gia vào Khối thi đua Các hội xã hội - nghề nghiệp tỉnh. Ghi nhận thành tích trong quá trình hoạt động, Nhà nước, Chính phủ Lào đã tặng thưởng cho các chiến sỹ quân tình nguyện 200 bộ Huân huy chương giai đoạn 1945 – 1975, nâng tổng số huân, huy chương mà Nhà nước Lào trao tặng cho Quân tình nguyện của tỉnh Thái Nguyên lên 2.000 bộ (trong đó có 1.000 bộ Huân chương Tự do cho các anh hùng liệt sỹ hi sinh tại Lào).Đại diện Ban liên lạc Quân tình nguyện đến thăm và giao lưu với Hiệp hội Cựu chiến binh quốc gia Lào, năm 2022Ban liên lạc đã tổ chức được nhiều hoạt động thiết thực, ý nghĩa: Trao tặng 165 suất quà cho các đối tượng chính sách thuộc Quân tình nguyện nhân Ngày Thương binh Liệt sỹ; hỗ trợ 10.000.000đ cho hội viên có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; trao tặng 77 triệu đồng cho sinh viên Lào tại Đại học Thái Nguyên trong các dịp tết Nguyên đán, tết Bunpymay hàng năm; tổ chức cho 2.000 lượt cựu Quân tình nguyện, thân nhân các anh hùng liệt sỹ hi sinh tại Lào thăm lại chiến trường xưa bằng nguồn xã hội hoá…Ban liên lạc đã được Trung ương hội Cựu chiến binh Việt Nam tặng 4 bằng khen về thành tích quy tập hài cốt liệt sỹ; Trung ương hội Hữu nghị Việt Lào tặng 18 bằng khen về thành tích xây dựng hội Hữu nghị Việt Lào; UBND tỉnh tặng 12 bằng khen cho tập thể và cá nhân có thành tích đặc biệt xuất sắc; năm 2022 được UBND tỉnh tặng Cờ thi đua.Phát huy truyền thống Quân tình nguyện trong 75 năm (1949 - 2024) và 28 năm thành lập Ban liên lạc (1996 - 2024), cán bộ, hội viên Ban liên lạc luôn phát huy bản chất Bộ đội Cụ Hồ và biểu tượng cao đẹp của tình đoàn kết hữu nghị Việt Nam - Lào để tình đoàn kết, gắn bó ấy ngày càng xanh tươi, đời đời bền vững.

Chính trị - Xã hội

Sớm khắc phục “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”

Quang cảnh phiên khai mạc Kỳ họpNhững tồn tại, hạn chế kéo dài nhiều năm cần khẩn trương khắc phục, không để cản trở phát triển, gây lãng phí, lỡ thời cơ phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, theo chỉ đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước.Đổi mới mạnh mẽ công tác lập phápTổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đánh giá, trong thành tựu chung của đất nước, có đóng góp rất quan trọng của Quốc hội nói chung, Quốc hội khoá XV nói riêng. Trong thời gian qua, hoạt động của Quốc hội đã có nhiều đổi mới, thực chất và hiệu quả hơn. Quốc hội ngày càng phát huy vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất với 3 chức năng quan trọng. “Về lập pháp, từ đầu nhiệm kỳ đến nay Quốc hội đã thông qua 43 luật, hơn 60 nghị quyết; Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành 45 nghị quyết và 3 pháp lệnh. Ngay trong kỳ họp thứ 8 này, Quốc hội dự kiến tiếp tục thông qua 15 dự luật, 2 Nghị quyết và cho ý kiến 13 dự thảo luật, trong đó 1 luật sửa 3 luật trong lĩnh vực đầu tư; 1 luật sửa 7 luật trong lĩnh vực tài chính, quản lý tài sản, có những dự án Luật rất mới phù hợp với xu thế phát triển như Luật dữ liệu và Luật Công nghiệp công nghệ số, thể hiện tinh thần trách nhiệm rất cao của Quốc hội, Chính phủ đã khẩn trương quán triệt, triển khai thực hiện ngay chủ trương Hội nghị Trung ương 10. Các văn bản này góp phần quan trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, khắc phục điểm nghẽn, điều chỉnh các mặt của đời sống kinh tế - xã hội, bảo đảm quyền con người và phục vụ phát triển đất nước”, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước khái quát.Tuy nhiên, theo Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, thẳng thắn nhìn nhận, trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần sớm được khắc phục. Trong 3 điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thể chế, hạ tầng và nhân lực, thì thể chế là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”.Quang cảnh phiên khai mạc Kỳ họpChất lượng xây dựng, hoàn thiện pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, một số luật mới ban hành đã phải sửa đổi; các quy định chưa thực sự đồng bộ, còn chồng chéo, nhiều quy định còn khó khăn, cản trở việc thực thi, gây thất thoát, lãng phí các nguồn lực; chưa tạo môi trường thực sự thuận lợi để thu hút nguồn lực của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, khơi thông nguồn lực trong dân. Thủ tục hành chính còn rườm rà, dịch vụ công trực tuyến tuy được cải tiến nhưng chưa thuận tiện, thông suốt; tổ chức thực thi pháp luật, chính sách vẫn là khâu yếu. Phân cấp, phân quyền chưa triệt để, chưa rõ trách nhiệm; sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, giảm đầu mối, giảm cấp trung gian còn bất cập, một bộ phận còn cồng kềnh, chồng lấn giữa lập pháp và hành pháp, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý.Những tồn tại, hạn chế kéo dài nhiều năm cần khẩn trương khắc phục, không để cản trở phát triển, gây lãng phí, lỡ thời cơ phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Đây là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, nhưng trọng trách rất lớn đặt lên vai của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và Chính phủ.Ngoài ra, qua công tác cho thấy, các thế lực thù địch, phản động luôn triệt để lợi dụng quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật để tác động, hướng lái, thậm chí chống phá, xác định đây là con đường “ngắn nhất”, “nhanh nhất” để chuyển hoá chính trị của Việt Nam.Các loại tội phạm, các nhóm lợi ích cũng tìm mọi cách tác động nhằm trục lợi, nếu không thật sự sáng suốt, bản lĩnh, vì sự nghiệp chung, thể chế không phù hợp có thể gây ra những khúc quanh đối với phát triển của đất nước.Từ những vấn đề nêu trên, để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tổ chức và hoạt động theo tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Trong đó, người đứng đầu Đảng, Nhà nước nhấn mạnh 3 vấn đề, đầu tiên là đổi mới mạnh mẽ công tác lập pháp.Chuyển đổi tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý Nhà nước vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển. Tư duy quản lý không cứng nhắc, dứt khoát từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm”. Các quy định của luật phải mang tính ổn định, có giá trị lâu dài; luật chỉ quy định những vấn đề khung, những vấn đề có tính nguyên tắc; không cần quá dài - Tổng Bí thư, Chủ tịch nước yêu cầu.Ông nêu rõ, những vấn đề thực tiễn biến động thường xuyên thì giao Chính phủ, địa phương quy định để bảo đảm linh hoạt trong điều hành. Tuyệt đối không hành chính hoá hoạt động của Quốc hội; luật hoá các quy định của Nghị định và Thông tư.Nội dung tiếp theo được vị lãnh đạo cao nhất của Đảng nhấn mạnh là đổi mới quy trình xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật. Bám sát thực tiễn, đứng trên mảnh đất thực tiễn Việt Nam để xây dựng các quy định pháp luật phù hợp; vừa làm vừa rút kinh nghiệm; không nóng vội, nhưng cũng không cầu toàn, để mất thời cơ; lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể; thường xuyên đánh giá hiệu quả, chất lượng chính sách sau ban hành để kịp thời điều chỉnh bất cập, mâu thuẫn, giảm thiểu thất thoát, lãng phí các nguồn lực; chủ động phát hiện và tháo gỡ nhanh nhất những “điểm nghẽn” có nguyên nhân từ các quy định của pháp luật.Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”; cải cách triệt để thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân và doanh nghiệp.Tập trung kiểm soát quyền lực trong xây dựng pháp luật, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu, kiên quyết chống tiêu cực, “lợi ích nhóm”. Chủ động, tích cực, khẩn trương xây dựng hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới (nhất là những vấn đề liên quan đến cách mạng 4.0, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh…) tạo khung khổ pháp lý để thực hiện thành công cuộc cách mạng về chuyển đổi số, tạo đột phá cho phát triển đất nước những năm tiếp theo, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước yêu cầu.Đảng đã chỉ đạo, Chính phủ đã thống nhất, Quốc hội đồng tình, chỉ bàn làm, không bàn lùiBáo cáo Quốc hội và đồng bào, cử tri cả nước những nội dung chủ yếu về tình hình kinh tế - xã hội, Thủ tướng Phạm Minh Chính hơn một lần nhấn mạnh “Đảng đã chỉ đạo, Chính phủ đã thống nhất, Quốc hội đồng tình, chỉ bàn làm, không bàn lùi”.Trong những hạn chế, bất cập cần lưu ý xử lý quyết liệt, người đứng đầu Chính phủ nêu rõ, thể chế, pháp luật còn nhiều vướng mắc cần tháo gỡ; vẫn còn tình trạng nợ đọng, chậm ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh. Việc phân cấp, phân quyền còn nhiều bất cập, vẫn tập trung nhiều ở trung ương, vẫn còn tình trạng “chưa đúng vai thuộc bài”; việc cắt giảm một số quy định, thủ tục hành chính, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, điều kiện kinh doanh chưa được xử lý kịp thời.Với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025, về quan điểm điều hành, Thủ tướng nêu: Đổi mới mạnh mẽ tư duy, cách nghĩ, cách làm như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ. Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp lý. Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm. Cái gì mới mà hay thì phải làm”.Giữ đà, giữ nhịp và tăng tốc, bứt phá. Bám sát thực tiễn, kịp thời ứng phó với những vấn đề phát sinh trên tinh thần “dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung”, “đã nói là làm, đã cam kết là phải thực hiện; đã làm, đã thực hiện là phải có hiệu quả”, “Đảng đã chỉ đạo, Chính phủ đã thống nhất, Quốc hội đồng tình, chỉ bàn làm, không bàn lùi” - Thủ tướng nhấn mạnh.Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính: Chỉ bàn làm, không bàn lùiBáo cáo Quốc hội 11 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu năm 2025, Thủ tướng cho biết sẽ đột phá mạnh mẽ hơn về thể chế phát triển với tư duy đổi mới “vừa quản lý chặt chẽ, vừa kiến tạo phát triển, huy động tối đa các nguồn lực phát triển, tạo không gian phát triển mới” tạo khung khổ pháp lý để huy động, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển. Thể chế hóa đầy đủ, kịp thời chủ trương của Đảng; bảo đảm tiến độ, chất lượng các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết; triển khai hiệu quả các luật, nghị quyết được Quốc hội thông qua. Khẩn trương rà soát, hoàn thiện các quy định pháp luật, tháo gỡ chồng chéo, bất cập; vướng mắc ở cấp nào thì cấp đó chủ động, tích cực sửa đổi; nghiên cứu ban hành nghị quyết thí điểm với những vấn đề mới phát sinh, chưa có quy định hoặc quy định không còn phù hợp. Chuyển tư duy quản lý sang khơi thông nguồn lựcKiên quyết cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính. Tiếp tục xây dựng bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với phân bổ nguồn lực; phát huy tính chủ động, tự lực, tự cường của các cấp; kiên quyết xóa bỏ cơ chế “xin - cho”. Quyết liệt đổi mới, sắp xếp các đơn vị sự nghiệp công lập; đẩy nhanh sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã. Đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, triển khai hiệu quả Đề án 06; đẩy mạnh số hóa toàn diện hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động kinh tế, xã hội - người đứng đầu Chính phủ nêu rõ.“Dưới sự lãnh đạo của Đảng, giám sát của Quốc hội, Chính phủ tập trung chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương phát huy sức mạnh đoàn kết, tinh thần đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng vươn lên, biến mọi khó khăn, thách thức thành cơ hội bứt phá, quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt để hoàn thành thắng lợi các mục tiêu đề ra, thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, đưa đất nước ta tự tin, vững bước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, khẳng định vị thế của đất nước trên trường quốc tế”- Thủ tướng phát biểu.

Chính trị - Xã hội

TỔNG QUAN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2024 VÀ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2025

I. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 20241.1. Năm 2024, Hải Dương bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực biến động xuất hiện nhiều "điểm nóng". Thiên tai, biến đổi khí hậu, dịch bệnh và các vấn đề an ninh khó lường hơn. Trong nước, tình hình chính trị - xã hội và kinh tế vĩ mô giữ ổn định, kiểm soát được lạm phát. Trong tỉnh, bão số 03 (siêu bão Yagi) gây thiệt hại lớn về người và tài sản, ảnh hưởng trực tiếp đến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành đối mặt với sức ép lớn, vừa tập trung giải quyết những vấn đề phức tạp phát sinh, thích ứng với các diễn biến bất lợi vừa khai thác hiệu quả các cơ hội để thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, cùng với sự nỗ lực cố gắng của cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, đặc biệt là sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo tỉnh trong triển khai thực hiện "chỉ bàn làm, không bàn lùi", các cấp, các ngành trong tỉnh đã thực hiện quyết liệt, nỗ lực hoàn thành cao nhất các nhiệm vụ, mục tiêu và khối lượng công việc lớn. Tỉnh Hải Dương đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, khá toàn diện, cơ bản hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch năm 2024, dự kiến vượt và đạt 13/15 chỉ tiêu chủ yếu đã đề ra (08 chỉ tiêu vượt và 05 chỉ tiêu đạt kế hoạch; 02 chỉ tiêu không hoàn thành). Trong đó, có 06 điểm nổi bật nhất là: (1) Tăng trưởng kinh tế đứng thứ 06/63 tỉnh, thành phố trong cả nước, ước tăng 10,2% (vượt mục tiêu tăng trên 9%). Hoàn thành vượt 46,7% dự toán thu ngân sách nhà nước năm 2024; (2) Tập trung đầu tư hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, nhất là công trình giao thông trọng điểm, quan trọng kết nối liên vùng hoàn thành mở rộng không gian phát triển mới; hoàn thiện hạ tầng đô thị thị xã Kinh Môn đã được công nhận là đô thị loại III; (3) Quyết liệt thực hiện các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án và giải ngân các nguồn vốn đầu tư; (4) Kịp thời ban hành thực hiện nhiều chính sách về an sinh xã hội; hoàn thành toàn bộ các chỉ tiêu về xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng lên; (5) Chủ động ứng phó, khắc phục kịp thời hậu quả cơn bão số 03; (6) Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh ổn định, được giữ vững. 1.2. Kết quả phát triển các ngành, lĩnh vực- Lĩnh vực kinh tế: Năm 2024, ước tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) tăng 10,2% (đạt mục tiêu tăng trên 10% theo kịch bản xây dựng tháng 9 năm 2024), trong đó, giá trị tăng thêm của ngành Nông, lâm, thủy sản tăng 2,1%; Công nghiệp - Xây dựng tăng 13,1%; Dịch vụ tăng 7,5%; Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 8,8%. Quy mô GRDP (theo giá hiện hành) đạt 212.386 tỷ đồng, tăng gấp gần 1,13 lần so với năm 2023; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo đúng hướng, tỷ trọng các ngành Nông, lâm, thủy sản - Công nghiệp, xây dựng - Dịch vụ và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tương ứng là 8,3%-56,7%-26,3%-8,7%; cụ thể: + Lĩnh vực nông nghiệp duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch giao; các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục đổi mới, phát triển; bộ mặt nông thôn có nhiều chuyển biến tích cực, đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn không ngừng được cải thiện. Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản năm 2024 (giá so sánh 2010) ước đạt 22.943 tỷ đồng, đạt 99,3% kế hoạch năm và tăng 1,9% so với năm 2023; Các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hoá tập trung, sản xuất theo quy trình GAP ứng dụng công nghệ cao được duy trì và phát triển. Tổng diện tích gieo cấy lúa là 107.318ha. Sản xuất rau màu và cây ăn quả được mở rộng về diện tích, chủng loại và thị trường tiêu thụ. Chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản ổn định. đến nay đã có 400 sản phẩm được đánh giá phân hạng OCOP. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đến hết năm 2024 có 99 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 32 xã kiểu mẫu đạt tỷ lệ 18% (vượt mục tiêu 16,8%). + Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng phục hồi tích cực, duy trì tốc độ tăng trưởng ở mức 2 con số. Giá trị sản xuất công nghiệp (giá so sánh năm 2010) ước đạt 387.871 tỷ đồng, đạt 103,4% kế hoạch và tăng 14,8% so với năm 2023. Chỉ số sản xuất công nghiệp ước tăng 14,2%. Một số ngành có mức tăng cao, như: sản xuất thiết bị điện tăng 37,34%; ngành dệt tăng 25,36%; sắt, thép tăng 18,2%; chế biến thực phẩm tăng 14,6%; điện sản xuất tăng 8,9%... Bên cạnh đó, còn một số ngành gặp khó khăn do ảnh hưởng của thị trường như: lắp ráp ô tô tăng 0,9%; xi măng giảm 2,2%. Giá trị sản xuất ngành xây dựng (giá so sánh năm 2010) ước đạt 24.371 tỷ đồng, đạt 99,4% kế hoạch năm và tăng 10,73% so với năm 2023. + Lĩnh vực dịch vụ phát triển đa dạng, tổng giá trị sản xuất (giá so sánh năm 2010) ước đạt 54.664 tỷ đồng, đạt 101,1% kế hoạch năm và tăng 8,0% so với năm 2023. Hoạt động thương mại duy trì sự ổn định, hàng hóa dịch vụ phong phú, đa dạng đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người dân; Tổ chức hiệu quả nhiều hoạt động xúc tiến thương mại trong và ngoài nước. Hoạt động ngân hàng trên địa bàn ổn định, mặt bằng lãi suất giảm so với cuối năm 2023; Hoạt động xuất nhập khẩu, vận tải, kho bãi tiếp tục phát triển. Hoạt động du lịch ước đón và phục vụ trên 2,5 triệu lượt khách. - Tài chính: Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước đạt 28.813 tỷ đồng, tăng 46,7% so với dự toán, trong đó thu nội địa 24.588 tỷ đồng (tăng 45,3%), thu xuất nhập khẩu 4.092 tỷ đồng (tăng 50,4%). Tổng chi ngân sách nhà nước ước đạt 26.392 tỷ đồng, bằng 144,7% dự toán. - Hoạt động đầu tư và phát triển doanh nghiệp tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước đạt 64.360 tỷ đồng, tăng 12,1% so với năm 2023. Thực hiện phân bổ vốn đầu tư công năm 2024 theo đúng quy định của pháp luật về đầu tư công, với tổng vốn thanh toán khoảng 9.471,2 tỷ đồng. Ước cả năm 2024, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công đạt trên 95% kế hoạch giao. Thu hút đầu tư trong nước ước tổng vốn đăng ký khoảng 11.489 tỷ đồng, tăng gấp 1,2 lần so với năm 2023; Thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt 718,1 triệu USD, bằng 54,8% so với năm trước; cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thành lập mới 2.000 doanh nghiệp, tăng 6,2% so với thực hiện năm 2023. Khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã tiếp tục phát triển. - Công tác quy hoạch, đầu tư xây dựng, quản lý và phát triển đô thị: Hoàn thành đóng dấu hồ sơ quy hoạch tỉnh. Tổ chức xây dựng, điều chỉnh quy hoạch xây dựng vùng huyện; quy hoạch chung thành phố Chí Linh, thị xã Kinh Môn. Triển khai phương án kết nối hạ tầng giao thông theo nội dung hợp tác với các tỉnh giáp ranh. ?ẩy nhanh tiến độ các dự án đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông quan trọng, kết nối vùng tỉnh, huyện. Tích cực huy động nguồn lực xã hội hóa đầu tư hoàn thành các dự án giao thông kết nối. Xây dựng phương án vận hành lưới điện tỉnh năm 2024. Tập trung đẩy nhanh tiến độ đầu tư, xây dựng hạ tầng các khu công nghiệp và cụm công nghiệp. Xây dựng, điều chỉnh Chương trình phát triển đô thị tỉnh Hải Dương đến năm 2035. - Lĩnh vực văn hóa - xã hội: + Giáo dục và đào tạo hoàn thành chương trình năm học 2023-2024; thi tốt nghiệp THPT nằm trong tốp 15 tỉnh đầu. Thành tích học sinh giỏi quốc gia duy trì vị trí tốp đầu toàn quốc. Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia tiếp tục được quan tâm đầu tư. + Y tế, công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ; cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế từ tuyến tỉnh đến cơ sở được tập trung đầu tư. Chú trọng ban hành các chính sách hỗ trợ đào tạo, thu hút, đãi ngộ nguồn nhân lực y tế, chất lượng chăm sóc sức khỏe ban đầu tại các trạm y tế tuyến xã được nâng cao; lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm cho người dân được bảo đảm, các chỉ tiêu về sức khỏe không ngừng tăng lên, nhiều chỉ số cao hơn so với mặt bằng chung toàn quốc. + Lao động việc làm bảo đảm an sinh xã hội được tập trung quan tâm, chất lượng nguồn nhân lực từng bước đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động. Thực hiện tốt chính sách, chế độ ưu đãi đối với người có công với cách mạng; Thực hiện có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, chính sách bảo trợ xã hội, người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, đối tượng yếu thế trong xã hội.+ Hoạt động văn hóa, thể thao và phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" đạt kết quả tích cực. Tổ chức tốt các hoạt động tuyên truyền, sự kiện văn hóa thể thao tiêu biểu, văn nghệ kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước và các nhiệm vụ chính trị của tỉnh với nhiều hình thức đa dạng. - Hoạt động khoa học, công nghệ và quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường: Ban hành các cơ chế chính sách thúc đẩy phát triển khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh, các quy định theo thẩm quyền để tổ chức thực hiện Luật Đất đai năm 2024, cơ bản hệ thống công trình thuỷ lợi, đê điều trên địa bàn tỉnh được bảo vệ an toàn. - Tập trung phát triển hạ tầng bưu chính, viễn thông, chuyển dịch sang hạ tầng ICT là nền tảng cho chuyển đổi số; xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu, hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu của các ngành, địa phương, liên thông đồng bộ qua nền tảng tích hợp và chia sẻ dùng chung của tỉnh (LGSP) kết nối liên thông với các hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia; phát triển các kênh tương tác, cung cấp thông tin và các dịch vụ, tiện ích hữu hiệu giữa chính quyền với người dân và doanh nghiệp; triển khai nhiều hình thức nhằm phát triển kỹ năng số, công dân số, văn hóa số. Đẩy mạnh chuyển đổi số trong các doanh nghiệp. Công tác chỉ đạo, hướng dẫn, hoạt động thông tin, tuyên truyền và chuyển đổi số của các cơ quan báo chí, truyền thông được quan tâm đẩy mạnh, có hiệu quả. - Công tác tư pháp, thanh tra và nội vụ đã xây dựng thể chế thực hiện đồng bộ, toàn diện, kịp thời điều chỉnh các vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhà nước. Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo được thực hiện đúng pháp luật. Hoàn thành việc phê duyệt vị trí việc làm của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh. Đẩy mạnh thực hiện sáp nhập, hợp nhất, sắp xếp lại tổ chức bộ máy các cơ quan hành chính nhà nước và các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, bảo đảm chất lượng, hoạt động hiệu quả. Công tác thi đua, khen thưởng có nhiều chuyển biến tích cực.- Công tác quốc phòng, an ninh: Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp đối với công tác quốc phòng, quân sự địa phương; làm tốt công tác kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh; Thực hiện tốt công tác chính sách hậu phương quân đội và các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, giải quyết các chế độ, chính sách cho các đối tượng theo quy định; Công tác phòng, chống tội phạm về trật tự xã hội và tệ nạn xã hội được triển khai quyết liệt, bài bản, kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngừa nghiệp vụ và phòng ngừa xã hội. Triển khai Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh trật tự ở cơ sở, bảo đảm 100% người dân trong độ tuổi được cấp căn cước công dân gắn chíp điện tử; bảo đảm dữ liệu dân cư "đúng, đủ, sạch, sống".II. KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 20251. Dự báo tình hình năm 2025, bối cảnh, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, kéo dài tại một số quốc gia, khu vực, thúc đẩy cục diện thế giới chuyển động theo xu hướng "đa cực, đa trung tâm". Trong nước và trong tỉnh, năm 2025 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm cuối thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 05 năm 2021-2025. Tình hình trong tỉnh tiếp tục chịu ảnh hưởng chung của diễn biến do tình hình thế giới và trong nước nên có những khó khăn nhất định. 2025 là năm tập trung tổ chức Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng nên cần củng cố, chuẩn bị tốt các yếu tố nền tảng để thực hiện thắng lợi các mục tiêu của quy hoạch tỉnh, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2026-2030. 2. Mục tiêu và các chỉ tiêu chủ yếu 2.1. Mục tiêu năm 2025 là năm tăng tốc, bứt phá, về đích, lấy ổn định làm tiền đề cho phát triển và phát triển để làm cơ sở cho ổn định; phấn đấu đạt kết quả cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, là tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại.2.2. Các chỉ tiêu chủ yếu: Xây dựng 15 chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu, cụ thể như sau: - 07 chỉ tiêu về kinh tế: (1) Tổng sản phẩm trên địa bàn tăng trên 10%; (2) Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển trên địa bàn so với GRDP đạt 30%; (3) Thu ngân sách nội địa tăng 10% so với dự toán; (4) Giá trị sản phẩm thu hoạch trên 1 ha đất trồng trọt và nuôi trồng thủy sản đạt 212 triệu đồng; (5) Tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu đạt 20,2%; (6) Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng 10% so với thực hiện năm 2024; (7) Tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 45%. 06 chỉ tiêu về xã hội: (1) Tỷ lệ lao động qua đào tạo được cấp chứng chỉ đạt 33%; (2) Tỷ lệ lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội đạt 55%; (3) Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế so với dân số đạt 95%; (4) Tỷ lệ trường học các cấp đạt chuẩn quốc gia: Mầm non 79,7%, Tiểu học 98,7%, THCS 95%, THPT 90,2%; (5) Số giường bệnh (không tính các trạm y tế cấp xã) đạt 33,8 giường/ 01 vạn dân; 13 bác sĩ/ 01 vạn dân; (6) Tỷ lệ hộ nghèo cuối năm còn 0,43%. 02 chỉ tiêu về môi trường: (1) 100% các cụm công nghiệp (có chủ đầu tư hạ tầng) có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt yêu cầu; (2) Tỷ lệ các dự án thuộc đối tượng được phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường đạt 100%. 3. Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu Bám sát sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XVII, các Nghị quyết, Kết luận, Chương trình, Đề án và Kế hoạch của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh về phát triển trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh. Tiếp tục phát huy tính chủ động, sâu sát, linh hoạt, có trọng tâm, trọng điểm trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ năm 2025. Chủ động theo dõi, thường xuyên kiểm tra đôn đốc và giám sát tiến độ, kết quả thực hiện chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao; kịp thời bổ sung các giải pháp thực hiện phù hợp với diễn biến tình hình thực tế tại địa phương, đơn vị. Tăng cường thông tin tuyên truyền, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể các cấp, tạo đồng thuận xã hội, phấn đấu hoàn thành cao nhất mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 của tỉnh.

Chính trị - Xã hội