Đứng trên bờ đê lồng lộng gió của huyện Tứ Kỳ, nhìn cỏ hồng mượt như nhung trải dài dưới chân đê Sỹ như cảnh một bộ phim ngôn tình nào đó tôi bỗng thấy sao gần gũi, thân thương đến thế. Y hệt cảm giác mình đang đứng ở quê nhà. Bờ chuối rặng tre xanh ngút ngàn. Cỏ hồng rạng màu trong ánh chiều tà gợi nhắc một thế giới êm đềm khác. Trong ký ức, tôi lại hình dung cụ ngoại uy nghi cưỡi con bạch mã tung bờm trong nắng chiều. Váy áo thướt tha của người trẻ bày trên cỏ, những tấm ảnh lãng mạn, những khoảnh khắc được làm trẻ thơ của đoàn khách lạ… khiến tôi như thấy gió xuân đã len lỏi ấm áp về sau rặng tre kia. Vùng đất này có gì đó kỳ lạ, vừa mộc mạc lại đầy bí ẩn. Sự trù phú sẽ không thể không đến nơi này. Bởi lẽ, giữa ồn ã của đời sống hiện nay, người ta biết giữ lại những gì thanh bình, dịu ngọt, đủ làm vui cõi người bận rộn. Lúc ngắm những bức tranh trong triển lãm mỹ thuật do Hội VHNT Hải Dương tổ chức, tôi nhận ra sức lao động đáng nể của đội ngũ văn nghệ sĩ nơi đây. Nhìn ra đời sống cuộn chảy và ngời lên sau mỗi bức tranh. Thật trân quý khi chứng kiến tấm chân tình của Tập đoàn Babeeni Việt Nam dành cho các văn nghệ sĩ. Họ đã gánh vác, đã sẻ chia về tài chính, nguồn lực con người đối với văn học nghệ thuật. Thực tế đời sống hiện nay, đâu đó cũng có doanh nhân, doanh nghiệp yêu văn chương nghệ thuật, song để một tập đoàn dành riêng cả một khu nhà cao tầng tráng lệ ở khoảnh đất riêng trưng bày các tác phẩm mỹ thuật, làm nơi giao lưu cho giới nghệ thuật; ban lãnh đạo tập đoàn đi dự hội thảo của VHNT và đưa ra những quyết sách để đưa tác phẩm vào đời thường thì quả là lần đầu tôi gặp. Tôi đã chìm đắm vào bộ sưu tập tranh sơn mài trên tầng 2 của Trung tâm Nghệ thuật Thành Đông mà không sao dứt ra được. Bởi tranh đẹp đã đành, cũng bởi nơi bày nó quá xứng đáng. Cái đẹp được nâng niu, trân trọng và có vị thế đàng hoàng, kiêu hãnh. Nhớ mãi những bức tranh vẽ cây đa, bến nước, hay những bông quỳnh trắng muốt dưới trăng… Chủ nhà, chủ của bộ sưu tập ấy đã hé mở cánh cửa tâm hồn mình, đã thổi vào những người làm văn học nghệ thuật những niềm vui lấp lánh. Chuyến đi về xã Bình Lãng huyện Tứ Kỳ thăm lăng bà Bổi Lạng – một doanh nhân sinh thế kỷ XVII nổi tiếng giàu có nhờ nghề xay giã thóc gạo và làm từ thiện gợi cho người ta ý niệm về sự vĩnh hằng. Chỉ có sống cuộc đời tử tế, biết sẻ chia và vì cộng đồng thì có lẽ, con người sẽ còn một đời sống khác sau cái chết. Sự tái sinh của phồn thịnh ấm no đang ngày ngày diễn ra trên đất Tứ Kỳ là minh chứng cho sức mạnh nội tại của con người. Công trình cống Sồi xã Thanh An đã làm đổi thay cả một vùng nông nghiệp rộng lớn ven sông Thái Bình. Những cánh đồng nuôi rươi được mùa, cho năng suất cao, giá bán ổn định đã làm giàu cho nông dân nơi đây. Mỗi một cân rươi đặc sản có giá bán vài trăm nghìn thì cũng không ngoa khi ai đó bảo “Tứ Kỳ có mỏ vàng dưới bùn”. Điều đó khiến tôi liên tưởng đến tích chuyện về bà Bổi Lạng xưa kia chuyên đi mò hến đã mò được vàng bạc châu báu dưới sông (tương truyền quân vua Lê, chúa Trịnh đắm thuyền) mang về lấy vốn làm ăn. Bà Bổi Lạng đã làm nghề xay giã gạo, bụi trấu bay kín một vùng, tiền của bà bỏ ra xây cầu, đóng thuyền từ thiện chở dân đi lại, cứu trợ giúp đỡ, cấp ruộng cho bà con. Người nghèo mò sỏi sông bán cho bà thay ốc hến bà vẫn mua, với lòng từ bi cứu giúp… Chúa đến thăm, bà nấu cơm mổ lợn khao quân của Chúa 3 ngày… Khắp nơi quanh làng ngoài xã đều có dấu tích từ thiện của bà Bổi Lạng. Người dân bảo 18 cây cầu đá còn trong các xóm ngõ trong vùng đều do bà Bổi Lạng bỏ tiền của ra xây dựng. Ngẫm nghĩ, truyền thống tương thân tương ái, từ thiện cứu giúp cộng đồng được thắp lên từ kỳ nhân Bổi Lạng chẳng phải chính là vàng ròng, là truyền thống tốt đẹp tạo nên cốt cách, phẩm hạnh người dân ở Tứ Kỳ đó sao? Di tích đình đền Dục Lạc xã Hưng Đạo lại kể câu chuyện khác. Đó là chuyện con cháu đời đời nhớ ơn, ghi công những vị thành hoàng lập làng, những Thánh mẫu, tướng quân có công giúp vua giết giặc ngoại xâm cứu nước. Cung cách cán bộ và nhân dân nơi này ứng xử với di tích đủ nhắc một thông điệp, đất này có truyền thống, nề nếp, có chiều sâu về văn hóa làng quê, có đủ tinh nhạy của thời hội nhập, mở cửa đón khách du lịch. Vốn sinh ra lớn lên ở làng quê xứ Kinh Bắc, nơi sông Cầu, sông Thương bồi đắp thấm đẫm chất dân ca quan họ, văn hóa lâu đời; nơi có rất nhiều kiểu cổng làng cổ kính và độc đáo, song có lẽ, cả xứ chưa có cái cổng làng nào đồ sộ và rộng rãi, hiện đại như cổng làng Xuân Nẻo xã Hưng Đạo, Tứ Kỳ. Vào thăm làng, càng ngạc nhiên khi nơi đây có nghề thêu có từ những năm 1920 từ thế kỷ trước. Theo lời các nghệ nhân thêu, cả xã Hưng Đạo bây giờ có khoảng 200 thợ thêu, trong đó có 11 nghệ nhân (1 Nghệ nhân Nhân dân, 3 Nghệ nhân Ưu tú và 7 Nghệ nhân làng nghề). Từ những năm chiến tranh chống Mỹ năm 1970 toàn xã có khoảng 2.000 người biết thêu. Thợ giỏi được Nhà nước đào tạo để đi dạy nghề thêu ở nhiều huyện, nhiều tỉnh thành khác. Câu chuyện với nghệ nhân ưu tú Phạm Thị Hòa – chủ cơ sở thêu gia đình thật thú vị. Bà cho biết, toàn bộ tranh thêu đều được thêu từ sợi chỉ tơ tằm, nguồn gốc thiên nhiên nên độ mịn, độ bóng, bắt sáng đều đạt thẩm mỹ cao; đồng thời cũng đòi hỏi bàn tay thợ thêu phải tinh tế, uyển chuyển hơn. Tranh thêu chủ yếu là tranh phong cảnh làng quê, các loại hoa gần gũi đời sống, các con vật trong 12 con giáp... Tôi hỏi bức tranh thêu chú hổ kích thước 60x80 cm, bà chủ cười, giá tầm vài chục triệu đã đành, nhưng người thợ phải mất hơn 3 tháng ngồi thêu miệt mài mới thành. Chao ôi, người đàn bà ngồi thêu, mài ngón tay mình với chỉ thêu ba tháng trời, tức 90 ngày, hết một mùa trong năm, phía sau là chồng con, gia đình, bao lo toan thường nhật... Vậy thì cái giá mấy chục triệu kia vẫn là quá rẻ. Tôi tần ngần ngắm bức tranh thêu chân dung một người đàn ông trung niên treo trên bức tường cạnh cửa lớn, tôi đoán là chồng của bà chủ. Như một khuôn mặt thật đúc bằng sáp ngà. Tơ màu da mịn láng không một vết xơ, các nét tóc, chàng mày, râu ria tơ chuẩn màu như thật. Ánh hoàng hôn chiếu vào, bức chân dung nổi lên đẹp rực rỡ và kinh ngạc. Tôi trộm nghĩ, người thêu bức tranh này đã không chỉ dùng tay mình dệt nên khuôn mặt, mà có lẽ đã thêu từ ngàn vạn mối chỉ yêu thương từ trái tim mình. Tranh thêu Xuân Nẻo nhìn bình dị mà sang trọng, nền nã nhưng quý phái, và đẹp một cách tinh tế. Hơn 60 năm gắn bó nghề thêu, gia đình có 4 đời làm nghề thêu, Nghệ nhân ưu tú Phạm Thị Hòa chia sẻ: Trước kia, những năm 1980, nghề thêu hưng thịnh, sản phẩm thêu từng được xuất đi Liên Xô và các nước Đông Âu. Sau khi Liên Xô tan rã, thị trường truyền thống mất, hợp tác xã thêu của xã giải thể khiến hàng nghìn thợ thêu hẫng hụt, nhiều người chuyển sang nghề khác, số ít mạnh dạn đứng ra mở cơ sở thêu riêng và từng bước tìm chỗ đứng. Giới thiệu cho tôi bức tranh hoa sen, bà Hòa nói do các công đoạn làm tranh thêu tỉ mỉ (sau khi phác thảo bản vẽ, định hình chi tiết, dùng giấy nến, bút kim đục theo nét vẽ, dùng dầu xoa để nét vẽ ăn xuống nền vải rồi mới thêu chỉ), chỉ thêu màu tơ tự nhiên, vải được thêu cũng là vải tơ tằm nên tranh của xưởng nhà bà không bao giờ bị phai màu, nhòe màu như một số sản phẩm trên thị trường. Hiện tại, thị trường Nhật rất ưa chuộng sản phẩm của cơ sở thêu do bà làm chủ. Nhìn bà vui vẻ giới thiệu, trả lời cả một đoàn khách đông đủ thấy tình yêu của bà dành cho nghề thêu. Cây đa, sân đình, bờ ao, lũ trẻ, hoa sen, hoa cúc, con trâu, chim, cá, mèo, chó, hổ, khỉ... trong tranh sinh động khắp cả một vùng. Mọi thứ đều sắc nét, sống động và có hồn. Tôi ngưỡng mộ những người thợ thêu, và tin rằng, mỗi bức tranh, họ đã dồn cả tâm lực và tâm cảm vào đó. Năng lượng “Người” trong họ đã dồn bớt sang, truyền vào từng sợi tơ, mũi chỉ làm cho tranh có đời sống sâu kín và dài lâu. Cái đẹp đúng là một thứ thiêng liêng. Ai biết gìn giữ thì nó bền bỉ ở bên. Bây giờ nhiều người muốn thêu trên khăn tay, áo dài, ga gối, đồ lưu niệm... cũng đang mở ra cho làng nghề hướng tiếp cận mới với khách hàng bản địa. Rời xưởng thêu, lên đê cao hóng gió, nhìn bát ngát ruộng đồng tôi thấy dường như mùa xuân đến sớm. Tứ Kỳ vùng quê thực sự giàu và đẹp theo cách riêng. Công cuộc chuyển mình bứt phá của cán bộ và nhân dân nơi này sẽ có thành quả như mong đợi. Tối ấy, gặp bà Vũ Thị Hà - Chủ tịch huyện thời gian rất ngắn ngủi song những tình cảm bà dành cho văn nghệ sĩ thật chân thành, cởi mở. Bà bày tỏ trăn trở của vùng đất này và cũng đặt niềm tin vào những người làm văn học nghệ thuật sẽ đồng hành cùng huyện trong nhiều năm tháng dựng xây và phát triển.Nể phục và thêm quý trọng các anh chị ở Hội VHNT Hải Dương. Các anh chị đã tìm được đường để con người và sản phẩm của VHNT được trân trọng, có nhiều bạn đồng hành quý trong quá trình sáng tạo. Chính các anh chị đã gián tiếp dạy chúng tôi biết cách yêu quý và quảng bá xứ sở quê hương mình qua những chuyến đi thực tế. Nhìn nhà văn Trương Thị Thương Huyền – Chủ tịch Hội VHNT Hải Dương thay mặt anh chị em văn nghệ sĩ nhận quà lưu niệm và chuyện vui cùng các doanh nhân trên sân khấu của nhà máy Babeeni Việt Nam, tôi thấy cảm động. Nếu không có ân tình sâu nặng thì làm sao có mối nhân duyên giữa văn chương nghệ thuật với giới kinh doanh. Làm sao có được chất “văn hóa’ đậm đặc và tinh tế trong chuyện làm ăn. Chén trà thơm sớm đông khi chia tay nhau ở Tứ Kỳ đã nhắc tôi rằng, mùa xuân đã về khe khẽ đâu đây. Lòng ai chắc cũng như tôi, nhen lên vệt thương nhớ mới…